ĐÂU LÀ ĐẢM BẢO TỐT NHẤT CHO TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP?

Thời gian qua, do ngân hàng kiểm soát chặt tín dụng trong lĩnh vực bất động sản nên các doanh nghiệp này có xu hướng phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) để huy động thêm nguồn vốn. Tuy nhiên, tỷ lệ nhà đầu tư là cá nhân mua TPDN có xu hướng tăng cao, điều này tiềm ẩn nhiều rủi ro nếu không nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi đầu tư vào loại hình này.

Nhiều chuyên gia đồng quan điểm rằng, không nên quá quan tâm đến tài sản bảo đảm khi đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, mà có nhiều yếu tố khác quan trọng hơn.

Tài sản bảo đảm nhưng chưa chắc đã là “đảm bảo”

Tham gia đầu tư trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, tài sản bảo đảm là yếu tố rất được các nhà đầu tư quan tâm. Theo phân tích của CTCP FiinGroup, nếu tài sản bảo đảm là bất động sản và dự án hình thành trên bất động sản, thì cần phải nắm được dự án nằm ở đâu, đơn vị định giá có tên tuổi hay không.

Các tài sản bảo đảm là cổ phiếu có mức độ dao động lớn và phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tín dụng của tổ chức phát hành. Do đó, nếu tổ chức phát hành gặp khó khăn trong việc trả nợ, giá trị của cổ phiếu cũng sẽ suy giảm nhanh chóng, ảnh hưởng đến giá trị của tài sản bảo đảm. Trên thực tế, chỉ các nhà đầu tư tổ chức mới có khả năng xử lý hoặc cấu trúc lại doanh nghiệp và quá trình này thường kéo dài nên không có nhiều ý nghĩa về mặt đảm bảo cho nhà đầu tư cá nhân.

Ngoài ra, các trái phiếu được đảm bảo bởi các bất động sản và tài sản hình thành từ vốn vay cũng rất rủi ro. Nếu không hoàn thành đúng theo kế hoạch đầu tư, giá trị tài sản đảm bảo sẽ bị ảnh hưởng đáng kể, ngoài ra thời gian xử lý tài sản đảm bảo kéo dài sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn đầu tư của nhà đầu tư.

Ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc FiinGroup nhấn mạnh, một điểm mọi người hay quan tâm là tài sản bảo đảm, nhưng đối với cá nhân chúng ta không nên quan tâm quá nhiều vấn đề này, vì tài sản bảo đảm không có tác dụng trong việc đánh giá khả năng trả nợ, mà chỉ nằm trong trường hợp mất vốn thì “tranh nhau” tài sản đó như thế nào, còn nếu đã đầu tư, có nhiều yếu tố khác quan trọng hơn.

“Tập đoàn Evergrande tại Trung Quốc vừa qua khi trong giai đoạn đứt thanh khoản không trả được lãi, nợ gốc đến hạn và phải đối mặt với khoản nợ hơn 300 tỷ USD. Điều đáng nói, 54% trong tổng nợ vay của Evergrande là “có tài sản thế chấp” nhưng thực tế nhà đầu tư trái phiếu và chủ nợ chưa thể nhanh chóng xử lý.

Trong đống tài sản thế chấp này cũng có cả cổ phiếu của chính Evergrande. Song giá thị trường trái phiếu và cổ phiếu đều chỉ còn 20-25% so với trước kia 1 năm. Như vậy, ngân hàng được cử làm quản lý và giám sát tài sản thế chấp cũng chịu. Cơ bản là nhà đầu tư mất hết tiền nếu bán ở giá này, hoặc lùi lãi và gốc 5 năm đợi doanh nghiệp tái cấu trúc”, ông Thuân nêu ví dụ.

Vị lãnh đạo FiinGroup còn chỉ ra rằng, tài sản bảo đảm có tác dụng lớn đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng nhiều hơn. Với trái phiếu trực tiếp chào bán ra công chúng, hay gián tiếp qua phát hành riêng lẻ và được phân phối lại thì không có ý nghĩa nhiều cho việc đánh giá rủi ro cũng như khả năng thu hồi nợ.

“Chúng tôi chỉ rà soát kỹ tài sản thế chấp và tác động của nó đến khả năng thu hồi vốn khi xếp hạng đó có khả năng nằm trong vùng xếp hạng có tính đầu cơ. Cho nên, để đánh giá được một trái phiếu hoặc một nhà phát hành rất phức tạp, mấu chốt là nhà đầu tư phải hiểu được năng lực hồ sơ kinh doanh và tài chính của ngành, tùy vào mức độ rủi ro, độ an toàn trong các ngành là khác nhau. Ví dụ trái phiếu ngành bất động sản sẽ rủi ro hơn ngành thực phẩm, hay ngành năng lượng tái tạo về cơ bản dài hạn ít rủi ro hơn, nhưng trước mắt vẫn có những thách thức nhất định về nguồn vốn. Mỗi ngành có đặc thù khác nhau chưa kể những thay đổi về pháp lý, môi trường kinh doanh, chất lượng quản trị doanh nghiệp,… từ đó mới có thể đưa ra những vấn đề cơ bản đánh giá trái phiếu”, đại diện FiinGroup cho hay.

Đồng tình với quan điểm trên, TS. Lê Xuân Nghĩa, Chuyên gia kinh tế phân tích, thông lệ quốc tế không quy định về việc phát hành trái phiếu phải bảo lãnh bằng tài sản, vì người mua trái phiếu là cá nhân, còn bên phát hành là tổ chức, nên việc xử lý tài sản bảo đảm cho trái phiếu là vô cùng phức tạp.

Tạo ra những nhà đầu tư hùng mạnh

Nhiều chuyên gia đều kiến nghị rằng, để thị trường trái phiếu doanh nghiệp phát triển bền vững, cần tạo ra những nhà đầu tư trái phiếu hùng mạnh mà những quốc gia tiên tiến đã làm được.

Ông Trần Huy Doãn, Phó Phòng Đầu tư Công ty Chứng khoán ACBS đề xuất, ở Việt Nam, các quỹ như BHYT, BHXH chủ yếu dùng nguồn vốn huy động được gửi tiết kiệm. Do đó, chính sách có thể đưa các quỹ đầu tư này tham gia vào thị trường trái phiếu, tiến tới nghiên cứu đầu tư cổ phiếu… Từ đó, định hướng cho nhà đầu tư cá nhân tham gia vào các quỹ này. Việc này cũng góp phần nắn dòng tiền gửi tiết kiệm của người dân, thay vì chỉ gửi ngắn hạn 3-6-12 tháng, có thể mạnh dạn gửi tới 3-5 năm.

Theo Bộ Tài chính khuyến cáo, để đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, các nhà đầu tư cần phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp theo đúng quy định của pháp luật, đánh giá được đầy đủ rủi ro khi đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp, không nên mua trái phiếu thông qua chào mời của các tổ chức cung cấp dịch vụ khi chưa tìm hiểu kỹ về tình hình tài chính của doanh nghiệp phát hành và các điều kiện, điều khoản của trái phiếu.

“Thực tế, thị trường chứng khoán cũng từng có thời kỳ cổ phiếu trên sàn phi chính thức (OTC) được giao dịch rất nhiều, nhu cầu mua rất cao nhưng thông tin không đầy đủ, rất rủi ro. Dần dần các cổ phiếu tốt lên sàn chính thức càng ngày càng nhiều và tình hình “bát nháo” trên sàn OTC dần được khắc phục bởi nhà đầu tư có nhiều lựa chọn tốt hơn và minh bạch hơn. Đồng thời, các nhà đầu tư cũng ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn sau quá trình tham gia thị trường”, một đại diện từ Bộ Tài chính thông tin.

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng như thị trường chứng khoán, cần được đặt trong một hệ thống quản trị chặt chẽ, mang tính công khai, minh bạch cao ngay từ đầu. Đó chính là cách kiểm soát để giảm thiểu rủi ro cho cả doanh nghiệp, nhà đầu tư và nền kinh tế”, đại diện cơ quan quản lý nhận định.

Có thể thấy, những lùm xùm trên thị trường tài chính thời gian qua chỉ là bước khởi động cho quá trình lành mạnh hoá môi trường kinh doanh của Việt Nam, đồng thời khẳng định quyết tâm của Chính phủ và các cơ quan chức năng trong việc xây dựng một hệ thống thị trường bền vững, hiệu quả, góp phần bảo đảm ổn định vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.


Chat tư vấn

Chuyên ngành MBA

Đăng ký tư vấn